Trong xây dựng bệnh viện kết cấu là xương sống của công trình dự án. Giống như một bộ xương người, nó hỗ trợ việc xây dựng và bảo vệ các hệ thống tuần hoàn bên trong. Là kỹ sư kết cấu, chức năng cơ bản của chúng tôi là tạo ra các hệ thống kết cấu đáp ứng với chương trình và thiết kế kiến trúc của một dự án. Các cơ sở y tế đặt ra những thách thức đặc biệt độc đáo vì yêu cầu của họ về không gian linh hoạt và nhu cầu của họ để thích ứng với công nghệ y tế đang thay đổi, cũng như độ nhạy âm thanh và rung động.
Nhận thức được những vấn đề này và phối hợp thiết kế kết cấu sớm trong quá trình thiết kế với toàn bộ nhóm dự án — từ chủ sở hữu cơ sở và nhà quy hoạch y tế đến kiến trúc sư, nhà tư vấn và nhà thầu — có thể tạo ra một tòa nhà phù hợp hơn với nhu cầu lâu dài của cơ sở và thường tiết kiệm thời gian và chi phí thi công.
Các cơ sở chăm sóc sức khỏe cố gắng kết nối với các cộng đồng mà họ phục vụ bằng cách duy trì sự hiện diện công dân đáng chú ý và cung cấp không gian công cộng cởi mở và thân thiện. Để đạt được điều này, các kiến trúc sư có thể thiết kế các lối vào lớn, minh bạch và các tâm nhĩ công cộng. Những thứ này đáp ứng mục tiêu thiết kế nhưng làm tăng thêm sự phức tạp cho cấu trúc của tòa nhà, vì chúng có thể yêu cầu các khoảng hở sàn lớn; cột cao, không có dấu gạch chéo; hoặc nhiều khoảng trống không có cột.
Không cần phải nói, nhưng mọi cấu trúc, bất kể kích thước hay mục đích dự định, đều phải được bảo mật. Các tòa nhà cần sự toàn vẹn về cấu trúc bên trong để có thể tiếp tục đứng vững. Một số cấu trúc phức tạp hơn những cấu trúc khác và yêu cầu thiết kế phức tạp hơn, nhưng đây chỉ là sự khác biệt về mức độ, không phải loại. Dù bản thân các tòa nhà hoặc công trình có phức tạp hay rộng lớn đến đâu, chúng đều cần một kỹ sư kết cấu để đảm bảo độ bền, độ ổn định và độ nghiêm ngặt của công trình.
Các tòa nhà và các cấu trúc khác khác nhau về kích thước và vật liệu được sử dụng để xây dựng chúng. Các kỹ sư kết cấu có thể đánh giá thiết kế của bất kỳ kết cấu cụ thể nào liên quan đến các khía cạnh này. Khi làm như vậy, họ xem xét mọi khía cạnh của các thông số của dự án xây dựng. Họ làm việc với các kiến trúc sư, cũng như các thông tin quy hoạch, để tìm ra những cách an toàn và hiệu quả nhất để xây dựng khung hỗ trợ của cấu trúc được đề cập. Khung này thường được gọi là “xương và cơ” của một tòa nhà. Giống như bộ xương của con người, những cấu trúc hỗ trợ này — dầm thép, gỗ xẻ, vách thạch cao và các vật liệu khác — phải hoạt động đồng bộ. Họ làm điều này để duy trì hình dạng và hình thức của cấu trúc, bất kể nó có thể là gì.
Điều này phù hợp với mọi thứ, từ những ngôi nhà hai tầng và các tòa nhà chung cư đến các tòa tháp văn phòng cao tầng và các tác phẩm nghệ thuật như Tháp Eiffel. Điều đó nói rằng, hầu hết công việc của một kỹ sư kết cấu liên quan đến thiết kế tòa nhà thương mại. Dù là gì đi nữa, thiết kế kết cấu là dịch vụ được hoàn thành bởi các kỹ sư kết cấu để đảm bảo rằng các công trình xây dựng có thể tồn tại trong nhiều năm, nhiều thập kỷ, thậm chí nhiều thế kỷ. Nếu các tòa nhà làm được điều này mà không bị đổ vỡ hoặc đổ nát theo mật độ riêng của chúng, chúng cần có thiết kế kết cấu vững chắc. Do đó, các kỹ sư kết cấu phải có cả kiến thức chuyên sâu về vật lý và sự hiểu biết thấu đáo về cách thức hoạt động của các quy trình thiết kế và kiến trúc. Nói cách khác, bỏ qua trọng lực vì vẻ đẹp sẽ không phải là một đặc điểm tuyệt vời ở một kỹ sư kết cấu.
Ngoài việc thiết kế bố trí khung bên trong của một tòa nhà, các kỹ sư của dịch vụ thiết kế kết cấu cũng giúp thực hiện các dự án khác. Chúng có thể khác nhau như máy móc và thiết bị xây dựng được sử dụng trong bệnh viện. Họ thậm chí còn giúp thiết kế các phương tiện lớn, chẳng hạn như xe tăng cho quân đội, đòi hỏi sự chú ý đặc biệt để đảm bảo tính toàn vẹn về cấu trúc. Đôi khi, họ cũng được thuê để kiểm tra các dự án xây dựng hoặc cải tạo hiện có để đánh giá kỹ thuật. Bộ kỹ năng cụ thể của họ được sử dụng tại chỗ để giúp xác định những nhu cầu có thể phát sinh và hỗ trợ chuẩn bị. Các kỹ sư kết cấu làm việc với các kiến trúc sư và tổng thầu để xác định các điều kiện mà theo đó một dự án có thể được hoàn thành thành công.
Mọi đối tượng là một cấu trúc. Cấu trúc được thực hiện bằng cách kết nối các thành viên khác nhau để làm cho nó toàn bộ để thực hiện chức năng dự định. Các cấu trúc tự nhiên thay đổi từ phần nhỏ nhất của nguyên tử đến toàn bộ sự sáng tạo. Các công trình nhân tạo bao gồm các tòa nhà, cầu, đập, tàu thủy, máy bay, tên lửa, xe lửa, ô tô, và cả những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật lớn. Các kỹ sư kết cấu thiết kế và truy cập kết cấu để đảm bảo rằng chúng hoạt động hiệu quả và ổn định về mặt chức năng. của tải trọng tính toán từ phân tích kết cấu. Các kỹ sư kết cấu chịu trách nhiệm về cả “ phân tích kết cấu ” cũng như “thiết kế kết cấu ”. Cả hai đều là một phần quan trọng của công trình dân dụng. Vì vậy, điều cần thiết là người ta phải hiểu rõ ràng về phân tích cấu trúc và thiết kế cả hai thuật ngữ. Ở đây chúng tôi đã giải thích sự khác biệt giữa phân tích kết cấu và thiết kế kết cấu.
Phân tích cấu trúc
Quá trình để xác định phản ứng hoặc ứng xử của kết cấu dưới một số tải trọng cụ thể hoặc tổ hợp tải trọng được gọi là phân tích kết cấu.
Thiết kế cấu trúc
Quá trình tìm ra các thông số kỹ thuật an toàn, bền và kinh tế của kết cấu bao gồm vật liệu, công nghệ, hình học, kích thước của các bộ phận kết cấu đủ để chịu tải của kết cấu trong suốt thời gian tồn tại của kết cấu được gọi là thiết kế kết cấu.
Khái niệm Tĩnh học, Cơ học hoặc Cơ học kết cấu thường được dùng lẫn lộn và gắn với mặt toán học, vật lý học lý thuyết, trong khi Kết cấu xây dựng hoặc Cơ kết cấu xây dựng có mục đích ứng dụng Cơ học hoặc cơ kết cấu vào trong ngành xây dựng. Vì vậy việc kiến tạo hệ chịu lực công trình và thiết kế cấu kiện (xác định kích thước yêu cầu, mặt cắt, lượng cốt thép, v. v.) được đặt lên hàng đầu.
Nhà kết cấu xây dựng hoặc nhà thiết kế xây dựng – thường là Kỹ sư xây dựng hơn là Kiến trúc sư – đảm nhiệm công việc thiết kế xây dựng.
Nhiệm vụ
Kết quả cuối cùng của việc thiết kế xây dựng là các bản tính kết cấu và thuyết minh chứng tỏ hệ chịu lực đã chọn thỏa mãn các tiêu chuẩn xây dựng bắt buộc.
Yêu cầu cơ bản quan trọng nhất của kết cấu xây dựng cũng như cơ kết cấu là hệ chịu lực phải nằm trong trạng thái cân bằng ổn định. Một phần quan trọng trong kết cấu xây dựng là mô hình hóa hệ chịu lực mẫu từ công trình xây dựng phức tạp (ngôn ngữ trong ngành còn gọi là “bổ kết cấu”) làm sao để làm sao tính toán được trong giới hạn công sức hợp lý kinh tế.
Quá trình tính toán kết cấu xây dựng tiếp tục với việc xác định ngoại lực tác động (Chú thích: tác giả dùng từ [ngoại tác] thay cho tải trọng hoặc ngoại lực vì ngoài tác nhân lực – trọng lực, gió, động đất, v. v. – ra còn có thể có các tác nhân không phải là lực khác là nhiệt, biến dạng cưỡng bức, v. v.). Từ đó có thể tính được các nội lực trong các cấu kiện. Lực tác động sẽ được truyền qua các cấu kiện xuống đến nền móng công trình.
Hệ chịu lực – Kết cấu xây dựng chia làm hai nhóm Hệ chịu lực
Hệ thanh và Hệ giàn (Thanh, Dầm, Cột, Khung)
Hệ chịu lực mặt, bao gồm Bản, Tấm, Vỏ cứng và Màng
Ngoại tác (ngoại lực, tải trọng)của một hệ chịu lực trong kết cấu xây dựng phải chú ý đến bao gồm:
Trọng lực
Lực giao thông
Lực gió
Lực sử dụng
Lực nước
Lực đất
Động đất
Nhiệt
Cưỡng bức
V. v.
Các lực động (va chạm, rung, dao động, động đất, v. v.) thường được tính quy chuyển sang một lực tĩnh trước khi dùng để tính toán cho công trình xây dựng.
Phân loại kết cấu xây dựng
Theo vật liệu xây dựng
Kết cấu xây dựng có thể được phân loại theo Vật liệu xây dựng qua đó cũng có phương pháp tính toán và quy trình thiết kế khác nhau:
– Kết cấu xây dựng bằng gạch đá (kết cấu gạch đá)
– Kết cấu gỗ, tre (kết cấu gỗ)
– Kết cấu bê tông tươi và kết cấu bê tông cốt thép
– Kết cấu thép và kim loại khác
– Kết cấu bằng vật liệu hỗn hợp composit
– Kết cấu nền móng: đất, đá
– Thủy tinh
– v. v.
Theo sơ đồ chịu lực
– Kết cấu tĩnh định
– Kết cấu siêu tĩnh
– Kết cấu phẳng
– Kết cấu không gian
Theo phương pháp thi công
– Kết cấu thi công toàn khối, tại chỗ
– Kết cấu thi công lắp ghép và thi công bán lắp ghép
Theo dạng công trình:
Kết cấu nhà cao tầng: nhà thấp tầng, nhà cao tầng, nhà công nghiệp, v. v.
Kết cấu cầu: cầu giản đơn, cầu dây văng, cầu treo, v. v.
Trong thực tế có nhiều loại tường chắn như tường cọc ván thép, tường cọc bê tông cốt thép, tường cọc xi măng đất… Tường chắn được phân thành hai loại là tường cứng và tường mềm tùy theo cơ chế tường tương tác với đất nền. Bài báo chỉ nghiên cứu loại tường mềm.Tùy theo chiều sâu đào và điều kiện địa chất, tường chắn có thể có một hoặc nhiều hàng neo để đảm bảo giữ ổn định cho hố đào. Trong phạm vi nghiên cứu của bài báo, chỉ xét tường chắn có hai hàng neo.
Có nhiều phương pháp tính toán tường chắn như phương pháp Rigid, phương pháp Winkler, phương pháp phần tử hữu hạn. Nội dung nghiên cứu của bài báo sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn là phương pháp có xét đến tương tác giữa tường và đất nền để phân tích tường chắn bằng công cụ hỗ trợ là phần mềm Plaxis.
Kết quả nghiên cứu chỉ xét đến mô men uốn và chuyển vị ngang trong tường, là hai tiêu chí để nghiên cứu ảnh hưởng của khoảng cách bố trí neo mà chưa xét đến lực cắt trong tường, lực theo phương đứng do neo gây ra, chuyển vị theo phương đứng do thành phần lực neo theo phương đứng gây ra và các yếu tố khác.
Tính toán tường chắn theo phương pháp phần tử hữu hạn (FEM) là phương pháp giải tích được sử dụng để xấp xỉ sự tương tác phức tạp xảy ra giữa đất và kết cấu. Phương pháp FEM cần nhiều thông số đầu vào để đạt được ứng xử chính xác của đất lên bề mặt kết cấu. Loại phân tích này gọi là phân tích tương tác đất–kết cấu (SSI). Trong phân tích FEM SSI, đất và tường thường được mô hình như là các phần tử hữu hạn tuân theo quan hệ giữa ứng suất và biến dạng phù hợp. SSI có thể sử dụng để mô hình hóa quá trình thi công thực tế, các giai đoạn thi công trong suốt quá trình phân tích được mô hình gia tăng dần. Quá trình này dùng mô hình ứng suất–biến dạng để mô phỏng ứng xử ứng suất–biến dạng xảy ra trong mỗi chu kỳ tác dụng tải. Điều này rất quan trọng vì ứng xử ứng suất–biến dạng của đất và mặt tiếp xúc đất–kết cấu là phi tuyến và phụ thuộc vào lộ trình ứng suất.
Đối với nhà sâu, có thể thiết kế tầng lửng nằm trong phần trệt và dùng làm nơi sinh hoạt chung. Tầng 2 và 3 dùng làm phòng ngủ. Tầng tiếp theo cũng có thể bố trí thêm được một phòng ngủ nữa nếu đông người.
Nhà xây mới, tầng lửng có thể thiết kế đúc. Trường hợp nhà cũ với độ thông thủy tầng trệt tương đối cao, có thể “chèn” thêm một gác lửng bằng gỗ ván để tăng diện tích sử dụng. Vị trí tầng lửng thường chiếm khoảng 1/2-2/3 diện tích xây dựng tầng trệt. Cao độ tầng trệt thường từ 3,5 m đến 4 m, nếu trệt có lửng thì cao từ 4,5 đến 5 m, khi đó, cao độ tầng lửng vào khoảng 2,2 m-2,5 m.
Cầu thang có thể bố trí ở một khu vực thuận lợi
Chức năng sử dụng của tầng lửng khá đa dạng. Bạn có thể xây lệch tầng và ở đó dùng làm nơi sinh hoạt chung hay phòng làm việc hoặc đưa phòng khách, phòng ăn và bếp lên khu vực này. Bạn cũng có thể sử dụng nơi đây để vừa làm phòng ngủ và phòng sinh hoạt chung.
Cầu thang từ trệt lên lửng có thể đặt ở vị trí nhỏ gọn vì số bậc ít và không chiếm diện tích. Cầu thang từ phần lửng lên các tầng trên có thể bố trí ở một khu vực khác thuận lợi hơn và phân chia không gian hợp lý.
Cung Sinh khí (Seng Qi):(Thuộc sao Tham Lang, rất tốt) chủ việc vượng tốt cho con nguời, có lợi cho con trai, lợi cho danh tiếng, tạo ra sức sống dồi dào cho con người, tính dục mạnh mẽ. Nếu sinh khí ở khu vệ sinh, phòng kho ,… thì hay mất vặt, thất nghiệp, đẻ non, nhiều bệnh tật.
Cung Thiên y (Tian Yi): (Thuộc sao Cự Môn, rất tốt) Chủ về sức khỏe tốt, lợi cho phụ nữ, vượng tài lộc, tiêu trừ bệnh, tâm tình ổn định, có giấc ngủ ngon, thường có quý nhân phù trợ, luôn đổi mới. Nếu Thiên y ở khu vệ sinh, phòng kho ,… thì mắc bệnh kinh niên, chứng ung thư.
Cung Diên niên (Phước Đức) (Yan Nian):(Thuộc sao Vũ Khúc, tốt) Đây là cung hoà thuận, tốt cho sự nghiệp và ngoại giao, với các mối quan hệ khác, vợ chồng hoà thuận, tuổi thọ tăng thêm, bớt kẻ địch, tính hoà dịu, với nữ giới có bạn đời tốt. Nếu Diên niên ở khu vệ sinh, phòng kho ,… thì hay cãi vã thị phi, nhà cửa không yên ổn.
Cung Phục vị (Fu Wei): (Thuộc sao Tả Phù, tốt) Đây là cung bình yên, trấn tĩnh. có lợi để bàn thờ. Vững cho chủ nhà, tình duyên nam nữ gắn bó, khả năng tài chính tốt, quan hệ cha mẹ vợ con tốt nhưng tình dục giảm sút. Nếu Phục vị ở khu vệ sinh, phòng kho …. thì gia chủ nóng nảy, luôn cảm thấy bất yên.
Cung Tuyệt mệnh (Jue Ming): (Thuộc sao Phá Quân, rất xấu) ở vào cung Tuyệt mệnh là khu vệ sinh, phòng kho thì chủ nhà có sức khoẻ tốt, tuổi thọ tăng thêm, duyên phận con cái tốt, có tài vận. Nếu cung Tuyệt mệnh vào vị trí tốt : chủ nhân bị bệnh khó chữa, mổ xẻ, đụng xe, mất trộm, trong người cảm thấy không yên ổn, mọi việc tính toán quá đáng, buồn phiền, đau khổ, u sầu, ít nói, ức chế tâm thần, duyên phận con cái bạc bẽo.
Cung Ngũ quỷ (Wu Gui):(Thuộc sao Liêm Trinh, xấu) Nếu Cung Ngũ quỷ là khu vệ sinh, kho thì có thể biến xấu thành tốt. Nếu cung Ngũ Quỷ là vị trí tốt ( cửa ra vào, phòng ngủ, bếp ) thì các sự việc lôi thôi vô cớ ập đến, người nhà mổ xẻ ung thư, tai tiếng thị phi, mất trộm, phá sản, hoả hoạn.
Cung Lục sát (Liu Sha):(Thuộc sao Lộc Tốn, xấu) Nếu Cung Lục sát là khu vệ sinh, kho thì người trong nhà có suy nghĩ đúng đắn, có số đào hoa và lợi cho đuờng tình duyên. Nếu cung Lục sát là vị trí tốt ( cửa ra vào, phòng ngủ, bếp ) thì tình duyên trắc trở, vợ chồng thường cãi nhau, sự nghiệp không tốt. Riêng với nam giới thi không lo làm ăn, hay rượu chè cờ bạc.
Cung Hoạ hại (Huo Hai):(Thuộc sao Lộc Tốn, xấu) Nếu Cung Hoạ hại là khu vệ sinh, kho thì người trong nhà được yên ổn, hoà thuận, sức khoẻ tốt, không xảy ra quan sự. Nếu cung Hoạ hại là vị trí tốt ( cửa ra vào, phòng ngủ, bếp ) thì người nhà bị chia rẽ, quan tai, mệt mỏi vì những việc vụn vặt, hay thưa kiện với người ngoài, thất tài…
Dù nhà bạn có 500m2 hay 50m2 thì cũng không có nghĩa là quá nhỏ. Trẻ em là niềm vui của cuộc sống nhưng cũng là “tác giả” của sự lộn xộn trong nhà. Nếu bạn có một ngôi nhà rộng thì thật đơn giản để tạo ra không gian dành riêng cho trẻ. Còn trong một ngôi nhà nhỏ thì việc đó không dễ dàng chút nào.
1. Sạch sẽ và gọn gàng
Quy tắc này áp dụng cho mọi phòng trong nhà, tất cả thời gian. Đầu tiên bạn phải “làm cỏ” từ phòng bạn, phòng trẻ, bếp ăn, phòng tắm đến phòng khách,…Lũ trẻ thường lớn rất nhanh và liên tục cần thay đồ mới. Khi bé lớn, bạn nên bán hay đem tặng, cho những đồ bé không dùng nữa.Đối với trẻ lớn hơn hãy để chúng giúp bạn trong việc này để hiểu tại sao những gì bạn đang làm là quan trọng. Một khi bạn đã làm được điều này thì tự động chúng ta sẽ cảm thấy nhà rộng hơn và việc quản lý trở nên dễ giải quyết.
2. Cá nhân hóa
Mọi người đều thích có không gian của riêng mình. Điều này cũng đúng với nhà nhỏ. Khi có phòng riêng, bé sẽ cảm giác được làm chủ và có trách nhiệm giữ gọn gàng, giúp bố mẹ không cần giám sát phòng bé quá nhiều. Đồ chơi trong phòng bé nên cho vào thùng và được ghi nhãn để tiện tìm kiếm.
3. Chỉ định khu vực cụ thể cho đồ đạc
Trong một ngôi nhà lớn, đồ đạc có thể được đặt trong nhiều phòng khác nhau, nhưng trong ngôi nhà nhỏ thì việc đặt chúng ở một vị trí cố định là điều cần thiết. Trong phòng của trẻ, không gian để đồ chơi, sách, quần áo, kỷ vật hay bộ sưu tập của bé và bạn nên giúp bé giữ chúng đúng vị trí sau khi trẻ sử dụng.
Nếu trẻ thích chơi đồ chơi trong phòng khách, bạn nên dạy bé đưa đồ về lại phòng sau mỗi lần chơi. Điều này không những tạo cho trẻ tính tự giác mà còn giúp bạn không mất công di chuyển đồ chơi về phòng cho bé và luôn giữ phòng khách ngăn nắp.
4. Cho bé khoảng thời gian tự do
Bé cần khoảng thời gian vui chơi thỏa thích dài dài có thể mà không phải lo lắng về việc dọn dẹp. Trẻ sẽ thường xuyên thích thời gian này. Cha mẹ cũng nên có khoảng thời gian nghỉ ngơi. Bạn đừng cố lau dọn ngôi nhà, hãy nghỉ ngơi thư giãn một chút cùng bé.
5. Không tham nhiều đồ
Chúng ta cho rằng thừa hơn thiếu và thường khó nói “không” với bé và ngay cả bản thân khi mua nhiều đồ đạc hơn. Lập danh sách những gì bạn có và những thứ bạn cần. Thực tế là có nhiều thứ chúng ta không bao giờ dùng. Hãy nhìn lại không gian nhà bạn, điều đáng lo ngại là sự lộn xộn. Nếu bạn thường xuyên mua đồ đạc mới, ngôi nhà sẽ luôn cảm thấy quá nhỏ và chật chội.
Chia sẻ một ngôi nhà nhỏ với người lớn đã là một thử thách, nhưng chia sẻ với trẻ giống như một trải nghiệm vậy. Hãy đối mặt với điều đó, ai cũng muốn nhà mình có nhiều phòng hơn, điều tốt nhất là tận dụng triệt để những gì bạn đang có. Ngôi nhà cũng góp phần tạo nên niềm vui trong cuộc sống. Hãy giải thích cho bé giá trị của ngôi nhà nhỏ mà trẻ gọi là nhà của bé và yêu thương nó.
Khi lựa chọn gạch ốp, lát nhà bạn cần chú ý màu gạch nên chọn dựa trên tông màu của nội thất, hoặc màu hợp của chủ. Tuy nhiên, nếu nhà thấp và hẹp nên chọn gạch màu sáng, họa tiết đơn giản. Nhà cao và rộng nên chọn gam màu sẫm tạo sự vững chắc.
Thị trường gạch ốp lát có rất nhiều mẫu mã đa dạng
Phòng hoặc nhà lát gạch có diện tích dưới 18m2 nên dùng loại gạch kích thước: 300 x 300, diện tích dưới 36m2 nên dùng loại sản phẩm kích thước: 400 x 400; 300 x 600, còn diện tích từ 36m2 trở lên nên dùng loại sản phẩm kích thước: 500 x 500; 600 x 600; 600 x 900. Đối với gạch ốp nên dùng loại có kích thước 200 x 400; 300 x 600
Nếu bạn có ý định ốp lát phối màu thì phải chọn các loại gạch có cùng kích thước thực tế (kích thước thực tế có sai lệch nhỏ so với kích thước danh nghĩa).
Ngoài ra, cần lưu ý khi chọn gạch Granit để lát sàn nhà đó là: Granit bóng kính thích hợp lát tại phòng khách, đại sảnh tức những nơi sang trọng. Granit bóng mờ thích hợp lát tại các nơi hành lang, phòng ở. Gạch sần thích hợp lát tại những nơi cần chống trơn, gara, lối đi, nhà vệ sinh…
Khi quyết định số lượng sao cho phù hợp với diện tích cần lát, bạn cần đo chính xác kích thước phòng. Nếu kích thước không chẵn viên thì cần đặt mua số lượng tăng thêm từ 1% diện tích phòng để cắt ghép cho đủ.
Các công trình cao tầng hiện nay hầu hết là nhà kết cấu bê tông cốt thép (BTCT) Sự phát triển của bê tông và cốt thép cường độ cao đã đưa đến khái niệm về kết cấu BTCT nhà cao tầng. Để có thể sử dụng các loại vật liệu cường độ cao này, đòi hỏi phải có các thiết bị cũng như biện phápthi công mới.
Lịch sử công nghệ nhà cao tầng đã trải qua nhiều giai đoạn. Trong thế kỷ 20, trước năm 1946, hầu hết các nhà cao trên 20 tầng là kết cấu thép. Từ đầu những năm 50 và đặc biệt 25 năm gần đây các công trình bằng BTCT đã bắt đầu cạnh tranh chiều cao với các công trình kết cấu thép. Trước đây việc vận chuyển vật liệu lên cao chủ yếu bằng tháp nâng khung gỗ, động cơ xăng, bê tông trộn tại chỗ 3-4m3 và đưa đến vị trí bằng máng nghiêng, đổ bê tông bằng xe đẩy và kết hợp với nhân công.
Đầu những năm 50 đã áp dụng tời trên khung thép với động cơ điện, bê tông và các vật liệu khác có thể vận chuyển cao tới 150m với tốc độ 120m/phút. Ngày nay việc sử dụng vận thăng kết hợp với cẩu tháp tự leo đang là những thiết bị tiên tiến và phù hợp nhất.
Bê tông trộn sẵn ở trạm trộn tập trung (bê tông thương phẩm) có mức độ cơ giới hoá cao và vận chuyển đến công trình bằng xe trộn lưu động đáp ứng mọi nhu cầu tiến độ. Công nghệ vật liệu và hoá chất xây dựng cũng đã đạt nhiều thành tựu đáng kể cho phép nâng cao công nghệxây dựng nhàcao tầng.
Nói đến thi công công trình cao tầng, chúng ta cần quan tâm đến một vấn đề hết sức quan trọng đó là kết cấu bê tông đổ tại chỗ hay kết cấu lắp ghép kết hợp đổ bê tông tại chỗ để có thể đưa ra sự lựa chọn cho phù hợp. Hiện nay, trong các công trình cao tầng ở nước ta một công nghệ mới đang được áp dụng đó là tấm côppha bê tông sàn đúc sẵn, thay thế cho côppha sắt hoặc gỗ là một phần của tấm sàn BTCT toàn khối. Với công trình nhà cao tầng khối lượng đổ bê tông tại chỗ lớn, nên công tác ván khuôn đóng vai trò khá quan trọng trong quy trình và kỹ thuật thi công công trình Giá thành ván khuôn thi công cho một công trình cũng có một vai trò đáng kể trong giá thành xây dựng chung. Mặt khác công tác thi công ván khuôn còn quyết định một phần tiến độ thi công.
Các nước phát triển trên thế giới trước đây cũng như ở nước ta từ khi bắt đầu xây dựng các công trình cao tầng đã áp dụng rất nhiều phương pháp để thi công côppha sàn và các loại côppha có những tên gọi chuyên dùng sau đây:
– Ván khuôn sàn lắp ráp sử dụng giáo chống; ván khuôn bản rộng cẩu lắp theo phương pháp ván khuôn bay; Ván khuôn trượt tường hầm thang và các ô cứng; Ván khuôn bản lớn; Ván khuôn leo thi công tường vách; Ván khuôn định hình bằng nhựa hoặc bằng sắt; Ván khuôn BTCT cho sàn đổ bê tông toàn khối.
Khác với côppha thông tường được làm bằng gỗ hoặc ván ép hoặc côppha định hình bằng thép sau khi đổ bê tông chờ cho đến khi bê tông đạt cường độ tiêu chuẩn mới được tháo dỡ côppha sau đó phải bảo dưỡng hoặc sửa chữa, thì tấm côppha BTCT được đổ bằng bê tông đá nhỏ có cốt thép bên trong thường dày từ 60 ÷ 100mm và mác bê tông thường lớn hơn mác bê tông của sàn. Hình dáng của tấm có thể là hình chữ nhật, hình thang, kích thước được xác định theo tính toán để đảm bảo phù hợp với sức nâng của cần cẩu độ bền của tấm trong quá trình thi công không bị gẫy khi cẩu vào vị trí và đảm bảo sự làm việc của tấm với phần bê tông đổ sau như một khối thống nhất theo sơ đồ kết cấu ban đầu. Mặt tiếp giáp giữa mặt trên của tấm và phần bê tông đổ sau không bị trượt qua nhau. Mối nối ướt giữa tấm và phần bê tông đổ sau không bị phá hoại.
Mặt trên của tấm côppha bê tông (mặt tiếp giáp với phần bê tông đổ sau) tuyệt đối không được xoa nhẵn, mà phải tạo nhám và có các gân bê tông để tạo lực dính bám với bê tông đổ sau. Mặt dưới của tấm có thể xoa phẳng nhẵn vì nó có thể là trần nhà. Cốt thep trong tấm được chia làm mấy loại như sau:
+ Lưới thép đặt trong tấm có cấu tạo như lưới thép của bản sàn và được xác định theo yêu cầu.
+ Thép chờ là thép cấu tạo thường bố trí vòng quanh chu vi của tấm để neo lưới cốt thép trên trong tấm vào phần sàn bê tông đổ sau.
+ Râu thép có thể coi như các móc cẩu, nhưng khi đã vào vị trí thì nó được coi như thép giá để định vị khoảng cách giữa hai tấm lưới thép.
+ Thép gia cố giữa các móc cẩu…
Tấm côppha bê tông thông thường cũng được thiết kế định hình để có thể sản xuất hàng loạt cho các tầng được đổ tại công trình, nếu có diện tích mặt bằng cho phép đổ tại chỗ hoặc được sản xuất tại nhà máy sau khi đủ ngày tuổi được vận chuyển đến công trường để cẩu lắp vào vị trí. Tấm côppha bê tông được đặt lên trên dàn giáo chống được lắp đặt phía dưới và cũng được thiết kế chi tiết.
Những tấm côppha này cũng có râu thép chờ để liên kết với nhau và có gờ để liên kết với phần bê tông đổ sau. Khi bê tông đổ sau đã liên kết với tấm côppha bê tông này và đủ cường độ tiêu chuẩn thì chỉ việc tháo dỡ cây chống hoặc giáo chống bên dưới là xong. Loại ván khuôn này góp phần đẩy nhanh tiến độ thi công một cách đáng kể. Phương pháp này được gọi là phương pháp thi công bán lắp ghép.
Với những công trình cao tầng và diện tích sử dụng lớn, việc sử dụng phương pháp thi công bán lắp ghép với các tấm côppha bê tông đúc sẵn – là một phần kết cấu sàn – sẽ làm cho giá thành công trình giảm.
Ở nước ta một số các công trình lớn đã và đang sử dụng biện pháp thi công này như Khách sạn Hà Nội Opera Hinton, Nhà làm việc Khoa Pháp văn Đại học Sư phạm Hà Nội.
Trình tự thi công sàn toàn khối khi sử dụng tấm côppha bê tông đúc sẵn:
– Chế tạo trước tấm côppha bê tông tại hiện trường hoặc nhà máy.
– Lắp dựng hệ thống cột hoặc giáo chống đỡ kết hợp các xà gồ đỡ.
– Sau khi lắp dựng xong hệ thống cột chống và giáo đỡ, thì tiến hành cẩu lắp các tấm côppha bê tông đúc sẵn lên trên hệ thống giàn giáo thay cho côppha đáy của kết cấu sàn BTCT đang thi công.
– Liên kết các mối nối giữa các phần tấm côppha bê tông đúc sẵn bằng các râu thép chờ sẵn, rải thép sàn trực tiếp lên tấm côppha bê tông này.
– Đổ bê tông phần kết cấu còn lại toàn khối với các mối nối giữa các phần kết cấu đã đúc sẵn, bảo dưỡng theo quy phạm.
– Tháo dỡ cây chống, dàn giáo chống, xà gồ để lại các tấm côppha bê tông đã được liên kết toàn khối với lớp bê tông đổ sau.
Như vậy có thể hiểu kết cấu sàn BTCT toàn khối đã được thi công thành hai lớp kết cấu có đặc trưng cơ lý khác nhau, nhưng làm việc tương tác với nhau giống như kết cấu hỗn hợp gồm nhiều thành phần vật liệu. Để có thể áp dụng công nghệ bán lắp ghép trong việc thi công các công trình bê tông kích thước lớn dạng tấm hoặc bản chúng ta cần phải: biết nguyên lý cấu tạo các tấm côppha bê tông và phương pháp tính toán loại kết cấu BTCT có cấu tạo hai lớp, trong đó một lớp là BTCT được chế tạo định hình sẵn và sử dụng như tấm côppha và lớp thứ hai là BTCT đổ tại chỗ sau khi lắp dựng xong các tấm côppha trên, có thể sử dụng tấm côppha bê tông theo các bước sau:
Bước 1: Tương tự như các côppha thông thường ta cũng tiến hành lắp dựng các cột chống đỡ côppha bê tông có thể bằng gỗ, bằng thép hoặc bằng khung dàn giáo. Sau đó tiếp tục lắp các xà gồ đỡ tấm nằm trên các đầu cột chống tương tự như biện pháp thông thường khi thi công cột – dầm dỡ côppha của các sàn sử dụng tấm côppha bằng gỗ hoặc bằng tấm thép. Thông thường nên lắp các xà gồ đỡ tấm song song theo một phương trong một ô bản sàn với khoảng cách giữa các xà gồ thông thường là 500 – 600mm.
Bước 2: Sau khi đã lắp dựng xong cột chống, xà gồ đỡ tấm côppha bê tông ta căn chỉnh, kiểm tra cao độ của hệ xà gồ đỡ sao cho đúng cao độ thiết kế và bắt đầu tiến hành cẩu lắp tấm bê tông côppha vào vị trí đã được thiết kế trước. Các tấm cần được đánh số và đánh dấu vị trí lắp dựng tránh hiện tượng nhầm lẫn.Trong khi cẩu lắp các tấm, cần phải được nằm ngang, các dây cẩu phải căng đều không được lệch nhau. Sau khi lắp xong các tấm cho một khu sàn cần kiểm tra lại cao độ các tấm không hoàn toàn thẳng theo đúng thiết kế có thể cong vênh, khi tấm bắt đầu chịu tải trọng sinh ra hiện tượng nứt gẫy. Trước khi tiến hành bước 3 một công việc cũng hết sức cần thiết nữa là nếu đối với các tầng ở trên thì khi dùng khung giáo làm cột chống thì ta cần kiểm tra các chân khớp nối giữa các chân giáo đã xuống hết chưa hoặc các chân kích và đầu kích đã được tăng hết cỡ chưa. Còn đối với tầng một nếu chân giáo đặt trên nền đất yếu, cần phải kiểm tra nền đất hoặc kê kích sao cho khi bắt đầu chịu tải các giàn giáo không bị lún hoặc lún lệch.
Bước 3: Tiếp tục lắp các tấm côppha thành dầm (ở đây ta mới chỉ nghiên cứu việc làm côppha cho sàn, còn dầm cột và vách đổ bê tông tại chỗ), hoặc cho phần đổ bù giữa tấm này và tấm kia hoặc giữa các tấm với vách cứng. Việc ghép côppha này tiến hành theo đúng các phương pháp truyền thống. Đối với những phần bù thêm này khi ghép côppha (có thể bằng gỗ hoặc bằng sắt có chiều dày nhỏ hơn tấm côppha bê tông) cần chú ý cao độ của các tấm côppha này sao cho khi dỡ côppha phần bê tông đổ thêm này liền khối với phần bê tông của tấm. Vì phần bê tông của tấm có thể được sử dụng làm trần không cần trát mà chỉ cần bả lại và sơn hoàn thiện.
Bước 4: Sau khi tiến hành xong bước ba, ta cần vệ sinh rửa bề mặt côppha kể cả côppha bê tông vì trong qúa trình cẩu lắp tấm công nhân đi lại trên sàn hoặc những phần lắp ghép thêm côppha cho phần tiếp giáp của tấm với các phần khác có thể bằng gỗ sẽ làm bẩn bề mặt côppha làm ảnh hưởng đến khả năng bám dính của hai phần bê tông.Tiếp theo, tiến hành rải các lớp thép cấu tạo hoặc theo thiết kế của các phần nối và của sàn. Việc rải các lớp thép này tuỳ thuộc vào mối nối của tấm các phần còn lại mà các lớp thép có thể là cấu tạo hoặc là theo tính toán thiết kế.
Bước 5: Trước khi tiến hành bước đổ bê tông, cần tưới nước rửa lại ván khuôn và thép một lần nữa để đảm bảo cho bê tông được bám dính tốt hơn. Sau đó tiến hành đổ bê tông như bình thường. Và tiến hành bảo dưỡng bê tông theo đúng quy trình và quy định bảo dưỡng bê tông đã được đặt ra. Bước 6: Sau khi bê tông đã đủ thời gian quy định, thì tiến hành tháo dỡ cột chống và xà gồ của sàn, đồng thời tháo dỡ côppha của phần dầm hoặc phần nối giữa các tấm hoặc các tấm với phần khác. Lúc này tấm đã được gắn với phần bê tông đổ sau như một khối thống nhất.
Từ những tính chất nêu trên, chúng ta thấy rằng để tăng khả năng chịu lực và tăng nhịp (chiều dài, chiều rộng cho tấm), đồng thời giảm mác bê tông có thể sử dụng các loại tấm côppha bê tông ứng suất trước hoặc dùng vật liệu nhẹ làm phần lõi của kết cấu nhằm làm giảm trọng lượng của công trình và giảm giá thành xây dựng. Tuy nhiên, việc chế tạo sản xuất các tấm côppha bê tông này chi phí ban đầu cũng khá lớn. Để giảm giá thành trong xây dựng, chúng ta cần phải có nhiều công trình thiết kế sử dụng loại.