Làm gì khi xây nhà xung quanh là cao tầng

Năng lượng âm có thể phát ra từ tòa nhà to lớn đang ở đối diện với nhà bạn. Trong trường hợp này, sức mạnh và quyền lực của lực lượng sống trong tòa nhà sẽ đè nén sức sống của nhà bạn.

Hiệu quả tương tự như việc sống đối diện với một ngọn núi. Vào thời trước, sống đối diện với một ngọn núi lớn trong cự ly chưa đến 1 km được xem như “đương đầu với núi”. Đây là điều không ai dám làm. Trong các đô thị, những tòa nhà cao tầng được xem có năng lượng tương tự với một ngọn núi, mặc dù quá trình hình thành năng lượng của tòa nhà rất nhỏ so với một ngọn núi. Tuổi của tòa nhà chỉ khoảng vài chục nãm, trong khi tuổi của ngọn núi hàng trăm năm hoặc nghìn năm.

Giải pháp

Bạn có thể hóa giải được sự ảnh hường của năng lượng âm phát ra từ tòa nhà đối diện. Các nhà Phong thủy đề nghị dùng gương phản chiếu, tuy nhiên bạn có thể sử dụng năng lượng này thay vì đối đầu với nó. Nếu có thể, hãy đổi hướng nhà, sao cho tòa nhà cao tầng được sử dụng như vật hỗ trợ phía sau nhà. Nếu không đối hướng nhà được thì xây một bức tường kiên cố ở phía trước tòa nhà và treo một dãy chuông gió hoặc bất cứ thứ gì bằng kim loại trước bức tường. Điểu này làm chậm và làm giảm cường độ dòng khí tiến vào ngôi nhà bạn từ phía chính diện. Ngoài ra, để một số lỗ hổng trong tường để làm chậm, giảm bớt cường độ và lọc khí di chuyển đến nhà bạn.

Chuông gió rất hữu hiệu trong việc đương đầu với năng lượng của núi và cũng rất có hiệu quả khi chế ngự khí âm phát xuất từ bên kia đường. Trong việc bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn năng lượng trong nhà, đừng để bị chế ngự. Trong trường hợp nghi ngờ, bạn có thể thỏa hiệp thay vì trực tiếp đương đầu với nó. Đây cũng là thái độ trong thực hành phong thủy.

Nếu nhà bạn nằm trong cái bóng của một tòa nhà lớn hơn, hãy phân tán năng lượng âm đến nhà bạn bằng cách tạo những khoảng không trang trí trong bức tường.
Dùng cây hoặc lối đi ngoằn ngoèo để giảm bớt cảm giác mất quân bình năng lượng nếu nhà bạn bị chèn ép bởi một nhà cao tầng.

Tính khái toán giá trị xây dựng ngôi nhà mới

Việc tính khái toán giá trị xây dựng dựa vào số liệu thống kê và kinh nghiệm của các nhà thầu xây dựng. Sau nhiều công trình và thực hiện tổng kết chi tiết cuối công trình, nhà thầu có kinh nghiệm sẽ tìm được những hàm số thống kê tương quan giữa giá thành và một biến số nào đó. Thông thường và dễ gặp nhất là mối tương quan giữa diện tích xây dựng và giá trên một đơn vị diện tích. Ví dụ : chúng ta thường nghe nói giá xây dựng nhà ở hiện này là … (ví dụ 3,8 triệu đồng/m2).

Như đã trình bày ở trên, việc tính khái toán dựa vào đơn giá/m2 là dựa vào thống kê nên chắc chắn sẽ có nhiều sai số và độ tin cậy phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và chất lượng mẫu thống kê. Cụ thể là nhà thầu phải có nhiều công trình về hình dáng, chất lượng hoàn thiện về kết cấu, địa chất, địa tầng tương đồng để có được một kết quả thống kê tin cậy. Điều này thật khó trong điều kiện hiện nay, bởi khi các Hiệp hội Xây dựng, Hiệp hội Kiến trúc chưa thể đứng ra tập hợp và phân tích số liệu này thì các nhà thầu đơn lẻ rất khó có được số liệu tin cậy. Thông thường, độ sai lệch của giá trị khái toán tính trên đơn giá xây dựng/m2 hiện nay khá cao, có thể sai số hơn 10% và có trường hợp cá biệt lên đến 50%.

Tham khảo ý kiến của các nhà thầu xây dựng hiện nay trên địa bàn Tp.HCM ở các vùng nội thành, đơn giá xây dựng/m2 được tính trung bình từ 3.8 – 5 triệu đồng cho mỗi m2, diện tích xây dựng (lưu ý không bao gồm tường rào, sân vườn và các trang bị nội thất). Diện tích xây dựng này được hiểu là diện tích của tầng trệt, các tầng lầu kể cả ban công. Nếu nhà mái ngói, các nhà thầu xây dựng thường cộng thêm 30% – 50% đơn giá cho phần mái ngói, có nghĩa là cộng thêm từ 1.200.000 – 1.800.000 đ cho một m2 mái ngói.

Ví dụ : Xây một ngôi nhà diện tích tầng trệt là 100m2, xây một trệt hai lầu và mái ngói thì giá trị xây dựng được tính như sau : 100 x 3 x 3.800.000 + 100 x 3.800.000 x 1/3 = 1.260.000.000 đ.

Lưu ý : Đơn giá trên chỉ áp dụng cho các công trình xây dựng trong nội thành. Ở các quận ngoại thành như Nhà Bè, Bình Chánh có cấu tạo địa chất yếu nên đơn giá xây dựng phải tăng lên, cụ thể tăng thêm từ 20% – 30% giá trị xây dựng cho việc gia cố móng. Theo ví dụ trên, nếu ngôi nhà 100m2 được xây ở Nhà Bè thì giá trị khái toán sẽ là 1.556.000.000 đ (tức tăng thêm ~ 300 triệu đồng).

Cách tính toán hệ thống thông gió cho tầng hầm

Bước 1: Tính lưu lượng gió cần thiết để cấp cho tầng hầm.
Bước 2: Khảo sát và lên ý tưởng về đường ống đi theo trục đứng và đi trên mặt bằng trong tầng hầm
Bước 3: Bố trí vị trí các cửa gió cấp/hút trên mặt bằng tầng hầm (khoảng cách của các cửa gió và nhánh cấp/hút nên giữ khoảng cách từ 3m đến 6m), các cửa gió có thế nối ống gió hoặc đặt trực tiếp trên ống gió
Bước 4: Tính kích thước miệng gió dựa vào lưu lượng đã tính, tốc độ gió tại các cửa cấp và cửa hút cần thiết kế trong tiêu chuẩn cho phép để giảm độ ồn, gợi ý từ 1-3 m/s
Bước 5: Thực hiện vẽ đường ống trên mặt bằng, cần giảm kích thước đường ống theo lưu lượng, bố trí đường ống sao cho trở lực nhỏ nhất nhưng vẫn đáp ứng được hiệu quả thông gió.
Lưu ý: Nên thiết kế đồng bộ cho các cửa cấp, cửa hút để đảm bảo về mặt kiến trúc cũng như cân bằng lưu lượng gió trong hệ thống.

Ví dụ :
Để tính toán lưu lượng thông gió tầng hầm. Bước đầu ta chọn bội số tuần hoàn không khí theo tiêu chuẩn cho ở bảng bên dưới, đối với tầng hầm bội số thường là 6-7 (lần) trong trường hợp bình thường. Nếu có kết hợp hút khói thì tính 10 lần.
Đề bài : Tính toán hệ thống thông gió cho tầng hầm có diện tích 1000 m2 chiều cao 4 mét.

Hướng dẫn :
Bước 1 : Tính lưu lượng gió
Chọn bội số tuần hoàn là 6, ta có lưu lượng của quạt hút công nghiệp cần thiết tối thiểu là: 1000 x 4 x 6 = 24.000 m3/h .
Lưu lượng tính được tương đương 24.000 m3/h = 6.5 m3/s

Bước 2 : Chọn cửa gió
Ta chọn loại cửa gió có kích thước 1000 x 250 thì tiết diện của cửa là
Sc =1 x 0.25 = 0.25m2

Ta chọn tốc độ hút gió của cửa là 1,5 m/s, thì ta được lưu lượng gió hút của 1 cửa là:
Gc = v x Sc = 0.25 x 1.5 = 0.375 m3/s
Bước 4 : Tính số cửa gió
Vậy số cửa gió tối thiểu trên nhánh gió hút sẽ được tính theo công thức:
Nc = V/Gc= 6.5/0.375 = 17,33 cửa
=> Số cửa cần có trên nhánh gió hút cần thực tế là 18 cửa.
Ghi chú : Nếu khu vực tầng hầm không đủ lớn để bố trí đủ 18 cửa thì bạn có thể dùng phương pháp tăng kích cỡ ống gió lên để giảm số lượng cửa xuống.

 

Nguyên nhân thấm sàn bê tông, sân thượng

Bề mặt sàn mái bê tông, sân thượng là khu vực bị thấm thường do sàn mái bi nứt gãy, rạn nứt chân chim, trời mưa bị đọng nước lâu ngày dẫn đến hiện tượng thấm thấu, sự co giãn không đồng đều giữa lớp bê tông sàn mái với tường bao quanh sàn mái dẫn đến hiện tượng rạng nứt, tách lớp gây thấm thấu.

Chống thấm sân thượng, sàn mái bê tông là một việc vô cùng quan trọng mà bất kỳ công trình nào cũng cần phải quan tâm vấn đề này, nếu không sẽ gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng trong việc gây hư hại bê tông, mòn rỉ sắt thép công trình, .

Một số nguyên nhân dẫn đến việc sàn mái bị thấm:

  •  Chất chống thấm sàn mái không có khả năng co ngót theo sự thay đổi thời tiết.
  •  Lượng keo mỏng không tạo được chiều dày phù hợp với sự co ngót.
  •  Chất chống thấm bị lão hoá nhanh với ánh nắng mặt trời.
  •  Tại những vị trí tiếp giáp giữa hai tấm chống thấm chất lượng không tốt, thi công không đạt yêu cầu.
  • Không thử nước trước khi lát gạch tàu (kiểm tra lớp chống thấm).
  •  Sàn sân thượng có hệ thống thoát nước kém.
  •  Sàn sân thượng bị đọng nước.

Hệ thống kết cấu khung chịu lực là gì

 Khung chịu lực không hoàn toàn (khung khuyết)

Trong các ngôi nhà, có bước gian tương đối rộng hay mặt bằng phân chia không gian không theo một quy cách nhất định, hệ thống kết cấu của nhà có thể làm hình thức khung không hoàn toàn để chia sàn và mái. Ngoài việc lợi dụng tường ngoài để chịu lực có thể dùng tường trong hoặc cột làm kết cấu chịu lực. Hình thức này mặt bằng bố trí tương đối linh hoạt, nhưng dùng nhiều bêtông và thép hơn so với tường chịu lực, liên kết giữa tường và dầm phức tạp. ở những nơi đất yếu dễ sinh ra hiện tượng tường và cột lún không đều, ảnh hưởng đến chất lượng công trình.

 Khung chịu lực hoàn toàn (khung trọn)

Kết cấu chịu lực của nhà là dầm và cột, tường chỉ là kết cấu bao che, do đó tường có thể dùng vật liệu nhẹ, ổn định chủ yếu của nhà dựa vào khung.
Vật liệu làm khung thường làm bêtông cốt thép và thép hoặc bằng gỗ. Hình thức kết cấu này (trừ khung gỗ) ít dùng trong các nhà dân dụng bình thường vì tốn nhiều ximăng và thép, do đó chỉ nên dùng đối với nhà ở cao tầng hoặc nhà công cộng.

Dầm chính và Dầm phụ trong kết cấu bê tông cố thép

Dầm chính là dầm có kích thước lớn nhất trong các dầm, dầm chính nhất định là dầm đi qua cột, vách (có nghĩa là các cấu kiện chịu nén), gác lên cột hoặc vách và đỡ các dầm phụ.

Đối với nhiều trường hợp, dầm chính được quan niệm là dầm theo phương chịu lực chính của ngôi nhà, hay gọi là dầm khung. Nếu hiểu theo nghĩa chịu lực thì dầm chính chịu nhiều lực hơn dầm phụ nhiều vì dầm chính là dầm gánh đỡ dầm phụ, có thể cái nay lại là chính của cái kia, nhưng lại là phụ của cái khác. Cách hiểu chuẩn nhất để chia dầm chính, dầm phụ là tải trọng mà dầm phải chịu. Nếu không gác lên cột thì đích thị là dầm phụ 100%, dầm phụ là dầm không gác lên các cấu kiện chịu nén mà lại gác lên cấu kiện chịu uốn, xoắn. Bản chất của việc phân chia dầm chính dầm phụ là để tính toán chịu lực, để gán lực từ dầm phụ sang dầm chính, mặt khác còn để chọn tiết diện cho dầm sao cho dầm chính có độ cứng lớn hơn nhiều so với dàm phụ.

Nếu tất cả các dầm đều gác lên cột, trừ dầm ban công, dầm phụ cầu thang, nên sẽ không chia ra dầm chính dầm phụ dựa trên hình học mà sẽ dựa trên chịu lực của mỗi dầm qua việc phân tải dầm nào chịu nhiều tải thì tiết diện sẽ lớn và ngược lại. Chọn tiết diện thế nào là do mỗi người, chọn tiết diện to quá thì thép ít, mất kiến trúc, ít thép quá cũng nguy. Chọn tiết diện nhỏ quá thì thép nhiều, lãng phí, mà nhiều thép quá hay ít thép quá đều chết cả, phá hoại giòn.Tuy nhiên ở đây chẳng cần quan tâm chính phụ làm gì nữa, nếu chạy Sap 2000, Etabs không gian thì nó tự tính ra, còn nếu bạn dồn tải bằng tay thì mới cần biết cái nào đè lên cái nào.

Đối với dầm chính:
h = (1/10 ~ 1/15)*L
Đối với dầm phụ:
h = (1/15 ~ 1/20) * L
b = (0,3 ~ 0,5)*h
L: Nhịp dầm

Hướng dẫn cách ốp gạch trên tường tại nhà với sự chuẩn bị kỹ càng của các loại vật liệu

Hãy ghé cử hàng bán vật liệu xây dựng và trang trí nội ngoại thất để có thể chọn mua những loại gạch dá mà bạn thích như là gạch men ceramic, đá granite, gạch men ốp tường, đá marble, đá tự nhiên ốp tường, …Gạch đá phải đúng với chất lượng, đúng với quy cách không bị nứt nẻ giữ được đường nét hoa văn, đó là cách ốp gạch trên tường có sự chuẩn bị tốt và đam bảo chất lượng khi thi công.
Dụng cụ thi công đó bao gồm bay, nivô hay xô chứa vữa, giẻ sạch hay xốp để vệ sinh gạch, thước, dao cắt gạch, dây căn, …

Vữa ốp gạch thường hay dùng là vữa hồ dầu hay còn gọi là keo dán đá gạch. Vữa hồ dầu được pha trộn cùng với xi măng nguyên chất trộn với nước, ta cũng có thể pha trộn 5% hồ vôi so với thể tích của xi măng để tạo nên độ dẽo của vữa ốp.
Gạt bỏ đi những chỗ lồi lõm ở trên mặt tường cần ốp gạch đá, cho thêm vữa vào ở những chỗ lõm để đảm bảo cho bề mặt ốp bằng phẳng.
Kiểm tra lại cao độ nền nhà, độ phẳng của tường cần ốp lát, sửa lại bằng cách trét vữa xi măng.

Trước khi ốp phải trát một lớp vữa xi măng cát tỷ lệ 1:3 theo thể tích. Các viên gạch loại nhỏ gắn trực tiếp lên tường, nếu nặng hơn phải có móc sắt để neo vào tường.Yêu cầu mặt ốp phải phẳng, gạch ốp chặt vào tường, mạch thẳng và đều, chiều rộng mạch nhỏ. Khi ốp thì ốp từ dưới lên, được hàng nào thì chèn vữa đầy cho hàng đó, khi ốp được 3 đến 4 viên thì dùng thước tầm để kiểm tra nếu chưa phẳng thì gõ nhẹ vào thước tầm để tạo độ phẳng. Trước khi ốp cả hàng phải ốp hàng đứng ở hai bên góc tường làm cữ cho cả hàng ngang để cách ốp gạch trên tường đạt hiệu quả. Ôp xong cả mạch thì phải hoà nước xi măng lau mạch. Sau khi ốp xong phải nương nhẹ mặt ốp khoảng 10 ngày cho mặt ốp thật rắn, lấy khăn lau bóng mặt, dùng thanh tre vót bẹt lấy cật để cào những vết vữa bám trên tường