Trong xây dựng bê tông cốt thép là kết cấu chủ đạo trong ngành xây dựng công trình. Đó là sự kết hợp giữa những thế mạnh khác nhau của hai loại vật liệu là cốt thép và bê tông để tạo thành một loại vật liệu kết cấu có những đặc tính phù hợp với kết cấu công trình. Trong đó, cốt thép đóng vai trò quan trọng có tính chất quyết định đến khả năng chịu lực của một cấu kiện kết cấu. Vì những lí do khác nhau liên quan đến việc sản xuất, vận chuyển và lắp đặt cốt thép nên các thanh thép cốt bê tông luôn bị khống chế về chiều dài ngắn hơn chiều dài của kết cấu. Do vậy, việc nối các thanh cốt thép luôn xảy ra trong mọi công trình xây dựng và trên phạm vi rộng lớn.
Việc nối cốt thép sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng công trình, rút ngắn thời gian thi công và tăng cường hiệu quả đầu tư của các dự án.
Trong xây dựng nối thép tuỳ từng trường hợp có những cách nối ghép khác nhau
Muốn có những thanh cốt thép dài hoặc muốn tận dụng những đoạn cốt thép ngắn thì phải nối chúng lại với nhau.
Ngày nay, người ta thường sử dụng mái tôn lợp, chính vì vậy mà nhà thầu thường sử dụng thép hình, thép hộp và các loại xà gồ thép phổ biết như xà gồ thép hình chữ C, chữ Z,…
Cần tính toán, đo đạc kỹ lưỡng khoảng cách xà gồ mái tôn cho phép đối với phần mái cần thi công.
Khoảng cách xà gồ lợp tôn được xác định dựa trên cơ sở những thí nghiệm chịu tải trọng của mái tôn trước tác động của gió và sự tác động trong quá trình thi công, lắp đặt trên mái.
Dựa vào độ dốc mái để xác định khoảng cách xà gồ lợp tôn
Để thoát nước mưa dễ dàng, mái cần phải có độ dốc nhất định. Độ dốc mái được xác định từ điểm cao nhất và điểm thấp nhất của mái tôn. Độ dốc mái lớn hay nhỏ phụ thuộc vào vật liệu cấu tạo mái, cấu tạo, kết cấu, thời tiết khí hậu cũng như kinh phí của từng hộ gia đình.
Tùy theo từng công trình mà sẽ có độ dốc mái khác nhau. Độ dốc mái tối thiểu >15% để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật cũng như tính thẩm mỹ cho công trình.
Mái lợp fibrô xi măng: độ dốc từ 30% – 40%
Mái lợp tôn múi (tôn 5 sóng, tôn 9 sóng, tôn giả ngói, tôn cách nhiệt): độ dốc từ 15% – 25%.
Mái lợp ngói: độ dốc từ 50% – 60%.
Mái lợp bê tông cốt thép: độ dốc từ 5% – 8%.
Phần nhà được phép nhô quá chỉ giới đường đỏ trong trường hợp chỉ giới xây dựng trùng với chỉ giới đường đỏ
Các quy định này cần được vận dụng phù hợp với giải pháp tổ chức không gian cụ thể của từng khu vực và thể hiện trong quy định về quản lý xây dựng theo đồ án quy hoạch của từng khu vực cụ thể và phải tuân thủ các quy định sau đây:
Trong khoảng không từ mặt vỉa hè lên tới độ cao 3,5m, mọi bộ phận của nhà đều không được nhô quá chỉ giới đường đỏ, trừ các trường hợp dưới đây:
Đường ống đứng thoát nước mưa ở mặt ngoài nhà: được phép vượt qua đường đỏ không quá 0,2m và phải đảm bảo mỹ quan;
Từ độ cao 1m (tính từ mặt vỉa hè) trở lên, các bậu cửa, gờ chỉ, bộ phận trang trí được phép vượt đường đỏ không quá 0,2m.
Trong khoảng không từ độ cao 3,5m (so với mặt vỉa hè) trở lên, các bộ phận cố định của nhà (ô-văng, sê-nô, ban công, mái đua…, nhưng không áp dụng đối với mái đón, mái hè) được vượt quá chỉ giới đường đỏ theo những Điều kiện sau:
Độ vươn ra (đo từ chỉ giới đường đỏ tới mép ngoài cùng của phần nhô ra), tùy thuộc chiều rộng lộ giới, không được lớn hơn giới hạn được quy định ở bảng 2.9, đồng thời phải nhỏ hơn chiều rộng vỉa hè ít nhất 1,0m, phải đảm bảo các quy định về an toàn lưới điện và tuân thủ quy định về quản lý xây dựng áp dụng cụ thể cho khu vực;
Vị trí độ cao và độ vươn ra cụ thể của ban công phải thống nhất hoặc tạo được nhịp điệu trong hình thức công trình kiến trúc, tạo được không gian kiến trúc cảnh quan trong từng cụm nhà cũng như trong tổng thể toàn khu vực;
Trên phần nhô ra chỉ được làm ban công, không được che chắn tạo thành lô-gia hay buồng.
Độ vươn ra tối đa của ban công, mái đua, ô-văng
Chiều rộng lộ giới (m)
Dưới 7m
7¸15
>15
Độ vươn ra tối đa Amax (m)
0
1,2
1,4
Phần ngầm dưới mặt đất: mọi bộ phận ngầm dưới mặt đất của ngôi nhà đều không được vượt quá chỉ giới đường đỏ.
Kiểm tra toàn bộ các vị trí, các kết nối của kim thu sét, các dây dẫn từ trên mái xuống hệ thống tiếp địa.
Đo kiểm hệ thống tiếp địa tại các vị trí đặt hộp kiểm tra nối đất. Kiểm tra các dây dẫn tiếp địa từ thiết bị chống sét đến hệ thống tiếp địa đảm bảo kết nối chắc chắn, an toàn.
Kiểm tra thiết bị chống sét (SPD):
Đối với các thiết bị chống sét nguồn điện: Bằng mắt thường ta có thể kiểm tra được trạng thái làm việc của chúng thông qua cửa sổ life-check. Khi thiết bị hoạt động bình thường, của sổ này có màu xanh và sẽ chuyển sang màu đỏ khi thiết bị bị hỏng.
Kiểm tra tất cả các điểm kết nối nguồn điện và dây tiếp đất có được chắc chắn hay không. Nếu các kết nối không đảm bảo cần phải có biện pháp khắc phục.
Bằng thiết bị chuyên dụng: Đo kiểm tra chính xác trạng thái hoạt động của thiết bị, khả năng bảo vệ cũng như các thông số kỹ thuật có đạt yêu cầu chống sét của nhà sản xuất đưa ra hay không.
Bảo trì, thay thế sửa chữa:
Những điểm kết nối kim thu sét trên mái, kim thu sét với dây thoát sét đã bị rỉ sét, cần phải được vệ sinh sạch sẽ, bôi mỡ bảo vệ hoặc thay thế nếu không đảm bảo an toàn.
Căn cứ vào kết quả đo điện trở nối đất và có biện pháp khắc phục nếu điện trở của hệ thống tiếp địa không còn đạt yêu cầu: đóng thêm các cọc tiếp địa, bổ sung hóa chất làm giảm điện trở đất. Kết quả đo điện trở nối đất nên dưới 10Ω theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành.
Thay thế modul hoặc các thiết bị hỏng (cửa sổ life-check đổi màu sắc), thiết bị chống sét có dòng dò hoặc điện áp bảo vệ không đảm bảo qua kiểm tra thiết bị bằng máy test chuyên dụng.
Thay thế các thiết bị chống sét đã mất khả năng chống sét nếu kết quả khắc phục không hiệu quả.
Thời gian kiểm tra:
Việc kiểm tra và bảo trì hệ thống chống sét nên được thực hiện thường xuyên, ít nhất 1 năm 2 lần vào trước và cuối mỗi mùa dông sét (thời điểm từ tháng 4 đến cuối tháng 10 hàng năm) .
Kiểm tra bất thường khi có các sự cố sét đánh hoặc có sự thay đổi trong hệ thống.
Một số thiết bị chuyên dùng để đo kiểm hệ thống chống sét:
Máy đo điện trở đất KYORITSU 4105A
Máy kiểm tra thiết bị chống sét (SPD tester): PM 20 – DEHN
Cốp pha đà giáo chỉ được tháo dỡ khi bê tông đạt cường độ cần thiết kế để kết cấu chịu được trọng lượng bản thân và các tải trọng tác động khác trong giai đoạn thi công sau. Khi tháo dỡ cốp pha, đà giáo, cần tránh không gây ứng suất đột ngột hoặc va chạm mạnh làm hư hại đến kết cấu bê tông.
Các bộ phận cốp pha đà giáo không còn chịu lực sau khi bê tông đã đóng rắn (như cốp pha thành bên của dầm, cột tường) có thể được tháo dỡ bê tông đạt cường độ trên 50N/cm2 ….
Đối với cốp pha đà giáo chịu lực của các kết cấu (đáy dầm, sàn, cột chống), nếu không có các chỉ dẫn đặc biệt của thiết kế thì được tháo dỡ khi bê tông đạt các giá trị cường độ ghi trong bảng 3.
Các kết cấu ô văng, công – xôn, sê – nô chỉ được tháo cột chống và cốp pha đáy khi cường độ bê tông đạt đủ mác thiết kế và đã có đối tượng trọng chống lật.
Khi tháo dỡ cốp pha đà giáo ở các tấm sàn đổ bê tông toàn khối của nhà nhiều tầng nên thực hiện như sau:
• Giữ lại toàn bộ đà giáo và cột chống ở tấm sàn nằm kề dưới tấm sàn sắp đổ bê tông;
• Tháo dỡ từng bộ phận cột chống cốp pha của tấm sàn phía dưới nữa và giữ lại các cột chống “an toàn” cách nha 3m dưới các dầm có nhịp lớn hơn 4m.
Đối với các công trình xây dựng trong khu vực có động đất và đối với các công trình đặc biệt, trị số cường độ bê tông cần đạt để tháo dỡ cốp pha chịu lực do thiết kế quy định.
Việc chất tải từng phần lên kết cấu sau khi tháo dỡ cốp pha đà giáo cần được tính toán theo cường độ bê tông đã đạt, loại kết cấu và các đặc trưng về tải trọng để tránh các vết nứt và các hư hỏng khác đối với kết cấu.
Việc chất toàn bộ tải trọng lên các kết cấu đã tháo dỡ cốp pha đà giáo chỉ được thực hiện khi bê tông đã đạt cường độ thiết kế.