Kết cấu chịu lực của ban công như thế nào?

Kết cấu chịu lực của ban công thường được cấu tạo cùng một loại vật liệu của kết cầu chịu lực của sàn như gỗ, thep, bê tông cốt thép. Hiện nay phổ biến ban công được làm bằng bê tông cốt thép toàn khối hoặc lắp ghép.

Tuỳ theo vị trí, yêu cầu sử dụng và vật liệu xây dựng mà cấu tạo sàn ban công theo 3 trường hợp sau:

Trường hợp 1: Bản sàn được đỡ bởi côngxon, côngxon được liên kết ngầm với khối xây, với dầm hoặc giằng tường. Trường hợp này cần quan tâm chống lật cho bancông. Nhịp vươn ra của ban công không quá 1000.

Trường hợp 2: Bản sàn được đỡ bởi côngxon, côngxon được liên kết với khối xây hay khung sườn nhà. Tuỳ theo vật liệu mà côngxon đặt cách nhau khoảng 1000 -2000. Sàn ban công trong trường hợp này nhịp vươn ra của ban công sẽ tuỳ theo khả năng chịu lực của côngxon, khoảng 1000 – 1500, thường là 1200. Cốt thép chịu lực đặt lên phía trên, dọc theo ban công (nối với cốt thép 2 dầm) và phía dưới theo chiều rộng ban công.

Trường hợp 3: Bản sàn được đúc liền với côngxon, côngxon là kết cấu của phần sàn nhà kéo dài ra với các dầm một nhịp, có phần côngxon đưa ra khỏi mặt tường ngoài và một dầm biên kiêm đầu dầm, đồng thời chịu đỡ lan can. Sàn ban côngtrong trường hợp này nhịp vươn ra của ban công có thể theo yêu cầu sử dụng, nhưng không quá 1800. Kết cấu này thường áp dụng cho nhà khung chịu lực. Cốt thép chịu lực thường nằm ở phía dưới ban công và theo chiều rộng (ngang) là chính.

Hiện nay sàn ban công bê tông cốt thép phổ biến hơn cả và cấu tạo sàn ban công là yếu tố cần phải chú trọng vì nó liên quan đến sự bền vững của ban công, nếu như ban công thi công không đảm bảo kết cấu chịu lực sẽ vô cùng nguy hiểm cho người sử dụng vì độ cao của nó. Khi thi công cũng như thiết kế ban công phải cẩn trọng với cấu tạo sàn ban công để tránh những tai nạn bất ngờ xảy ra.

Cấu tạo mũ cọc bê tông cốt thép

Mũ cọc có vai trò rất quan trọng trong công tác thi công cọc đóng, vừa đảm bảo cho cọc không bị nứt, vỡ, mà còn giữ cho sabô của búa không bị hư hại. Thông thường các cơ sở sản xuất búa đều cung cấp đồng bộ cả giàn búa cùng loại mũ cọc tương ứng. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta chưa chế tạo được dàn búa, có thể thay thế mũ cọc chế sằn bằng cách tự gia công bằng hàn.

Khi đóng cọc bằng búa hơi đơn động và búa điêzen kiểu ống nên dùng mũ cọc dạng chữ H đúc hoặc hàn có khoang trên và khoang dưới. Khi đóng cọc bằng búa điêzen kiểu cần và búa hơi song động có thể dùng mũ cọc dạng chữ U chỉ có mình khoang dưới.

Mũ cọc phải có lỗ tai hoặc vòng treo để ngoắc vào đầu búa trong tư thế thẳng đứng bằng cáp. Khoang trên thường có dạng hình tròn sâu 100 mm đến 150 mm cho búa hơi và 200 mm đến 300 mm cho búa điêzen. Khoang trên chứa giảm chấn để giảm tải trọng động lên búa cũng như lên chính mũ cọc. Ðường kính khoang trên thường rộng hơn đường kính sabô của búa khoảng 10 mm đến 15 mm hoặc không nhỏ hơn kích cỡ ngoài của búa hơi.

Giảm chấn trên thường được làm từ các loại gỗ cứng (sồi, thông, sến, táu, lát…) cắt dọc thớ, đặt vuông góc chuẩn với trục chính. Bề dày của tấm giảm chấn trên phụ thuộc vào trọng lượng phần đập của búa; với búa điêzen kiểu ống có trọng lượng phần đập là 1 250, 1 800, 2 500, 3 500, 5 000 kG thì chiều dày đệm không nhỏ hơn tương ứng là 150, 200, 200, 250, 300 mm; với búa hơi không nhỏ hơn 250 mm đến 300 mm.

Nghiêm cấm việc dùng tấm giảm chấn trên đã bị giập nát, có thể xảy ra nhát đập trực tiếp của búa vào mũ thép.

Kích cở khoang dưới của mũ cọc thường chỉ rộng hơn kích thước tiết diện cọc 1 cm. Chiều sâu khoang dưới khoảng 500 mm đến 600 mm. Tấm giảm chấn dưới có thể làm từ các vật liệu khác nhau .Bề dày của đệm dưới khi đóng cọc bê tông cốt thép phụ thuộc vào vật liệu đệm, tính nǎng kỹ thuật của búa, cọc, đặc điểm đất nền và xác định như tính toán.

 

Tại sao phải lắp đặt hệ thống thoát nước mưa trên mái nhà ?

Khi xây dựng thi công hệ thốg mái nhà đều sẽ chú ý và tính toán đến việc lắp đặt hệ thống thoát nước trên mái, kể cả mái dốc hay mái bằng. Hệ thống thoát nước được xây dựng ở bất kì công trình nào có mái vì rất nhiều nguyên nhân và nó vô cùng quan trọng, thường thì đó là một phận của cấu tạo hệ thống mái. Tại sao phải lắp đặt hệ thống thoát nước mưa trên mái ?

Thiết kế hệ thống thoát nước mưa trên mái nhà đơn giản cho kiểu mái dốc

Mái nhà là bộ phận có khả năng giáp với công trình bên cạnh nhất, nếu không làm hệ thống thoát nước mưa trên mái nhàrất có thể nước mưa chảy sang đất nhà kề bên giống như không khống chế được dòng chảy nước mưa trên mái và được đổ xuống tùy tiện. Nếu bố trí hệ thống thoát nước hợp lý thì sẽ khống chế được dòng chảy một cách hợp lý.
Hệ thống thoát nước trên mái sẽ làm cho nước mưa không đọng lại trên mái và không bị thấm dột vào trong nhà.

Nếu nước mưa ứ đọng trên mái sẽ gây ra ẩm mốc làm cho vật liệu kết cấu mái bị giảm độ bền vững, giảm tuổi thọ nhanh chóng.
Nước mưa đọng trên mái làm giảm tính thẩm mĩ của ngoại thất ngôi nhà.

Không có hệ thống thoát nước mưa trên mái nhà, rác cùng với nước mưa sẽ cùng bị ứ đọng, lâu ngày sinh ra mất vệ sinh và tạo điều kiện cho dịch bệnh sinh sôi, phát triển…
Hiện nay mục đích sử dụng mái rất đa dạng, đặc biệt là mái bằng có thể thiết kế sân thượng thành vườn cây, góc giải trí, góc làm việc, sân phơi…Nếu như không có hệ thống thoát nước sẽ gây cản trở và ảnh hưởng đến mục đích sử dụng của gia đình.

Các hệ thống kết cấu khung chịu lực

Trong xây dựng hệ thống kết cấu khung chụi lực cơ bản bao gồm:

1. Khung chịu lực không hoàn toàn (khung khuyết)

Trong các ngôi nhà, có bước gian tương đối rộng hay mặt bằng phân chia không gian không theo một quy cách nhất định, hệ thống kết cấu của nhà có thể làm hình thức khung không hoàn toàn để chia sàn và mái. Ngoài việc lợi dụng tường ngoài để chịu lực có thể dùng tường trong hoặc cột làm kết cấu chịu lực. Hình thức này mặt bằng bố trí tương đối linh hoạt, nhưng dùng nhiều bêtông và thép hơn so với tường chịu lực, liên kết giữa tường và dầm phức tạp. ở những nơi đất yếu dễ sinh ra hiện tượng tường và cột lún không đều, ảnh hưởng đến chất lượng công trình.

2. Khung chịu lực hoàn toàn (khung trọn)

Kết cấu chịu lực của nhà là dầm và cột, tường chỉ là kết cấu bao che, do đó tường có thể dùng vật liệu nhẹ, ổn định chủ yếu của nhà dựa vào khung.
Vật liệu làm khung thường làm bêtông cốt thép và thép hoặc bằng gỗ. Hình thức kết cấu này (trừ khung gỗ) ít dùng trong các nhà dân dụng bình thường vì tốn nhiều ximăng và thép, do đó chỉ nên dùng đối với nhà ở cao tầng hoặc nhà công cộng.

3. Hệ thống kết cấu không gian

Trong các nhà dân dụng có yêu cầu không gian lớn như rạp hát, rạp xiếc, nhà ăn, nhà thể thao có mái… ngoài các phương án kết cấu đã nêu trên ra, cũng có thể áp dụng quy luật và nguyên tắc tạo hình cấu trúc của các sinh thực vật theo phỏng sinh học kiến trúc như:
– Sườn không gian ba chiều: phỏng theo cấu trúc của đầu khớp xương động vật.
– Hình thức mặt xếp: phỏng theo cấu trúc của lá buông, lá dừa.
– Hình thức vỏ mỏng: phỏng theo cấu trúc vỏ trứng, vỏ sò, sọ động vật.
– Hình thức kết cấu dây căng: phỏng theo cấu trúc của mạng nhện.
Hệ thống kết cấu chịu lực không gian thi công và cấu tạo phức tạp.

Tóm lại, chọn các sơ đồ chịu lực của nhà dân dụng. Ngoài việc chú ý đến phương diện chịu lực, dễ dàng thi công và kinh tế. Về phương diện cấu tạo cần chú ý tường và mái phải có khả năng cách nhiệt và giữ nhiệt nhất định. Sàn gác và vách ngăn có khả năng cách âm cao. Hình thức cấu tạo đơn giản, các cấu kiện và vật liệu dùng rộng rãi, trọng lượng các cấu kiện không lớn quá, hợp với điều kiện thi công.